Đề cương tuyên truyền Kết quả kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV
ĐỀ
CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kết quả kỳ họp bất thường lần thứ 9,
Quốc hội khóa XV
-----
A. BỐI CẢNH, NỘI
DUNG CỦA KỲ HỌP
1.
Bối cảnh
Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV diễn ra trong những
ngày đầu Xuân Ất Tỵ năm 2025 với niềm tin và khí thế mới của Nhân dân đối sự
phát triển đất nước. Đây là kỳ họp có ý nghĩa quan trọng, xem xét, quyết định
nhiều vấn đề cấp bách của đất nước như thể chế hóa Nghị quyết 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, tạo tiền đề về công tác tổ chức, cán bộ cho Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIV và Bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XVI, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 -2031;
đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thể chế, tạo đột phá mới, kiến tạo
không gian mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.
Nội dung của Kỳ họp
Quốc hội
đã xem xét, thông qua 04 luật, 05 nghị quyết và tiến hành công tác nhân sự để thực hiện việc sắp xếp
tổ chức bộ máy nhà nước; xem xét, thông qua 06 nghị quyết nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, cấp
bách, cần thiết đối với một số dự án, công trình quan trọng.
B. KẾT QUẢ CỦA KỲ
HỌP
I. VỀ CÁC LUẬT, NGHỊ QUYẾT VÀ CÔNG TÁC NHÂN SỰ ĐỂ
THỰC HIỆN SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội
được ban hành nhằm kịp thời thể chế
hóa chủ trương của Đảng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan của Quốc hội và
Văn phòng Quốc hội. Luật sửa đổi, bổ sung 21 điều và bãi bỏ 17 điều của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, có hiệu lực thi hành từ ngày được Quốc hội thông qua (ngày
17/02/2025), tập trung vào việc phân định thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ và các cơ
quan khác trong bộ máy nhà nước; thay đổi cách thức quy định về Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội và xác định rõ cơ cấu tổ chức của Hội đồng, Ủy ban bảo đảm thuận lợi cho việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh
gọn tổ chức bộ máy, hài hòa về cơ cấu tổ chức với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan. Bên cạnh đó, Luật còn sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến
hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, cơ
quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, đại biểu Quốc hội và
kỳ họp Quốc hội.
Ngay sau khi Luật được thông qua, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc
tổ chức các cơ quan của Quốc hội; đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã
ban hành Nghị quyết về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu tổ chức của Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có hiệu lực thi hành từ ngày 18/02/2025; đồng
thời, ban hành các nghị quyết về số lượng và phê chuẩn danh
sách thành viên các cơ quan của Quốc hội khóa XV, bảo đảm đồng bộ với quy định
của Luật và tính thống nhất, liên tục, không làm gián đoạn hoạt động của các cơ
quan.
2. Luật
Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) được ban hành nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về
tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ; thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tạo cơ sở pháp lý quan trọng để “tăng
cường quyền tự chủ, tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các cơ
quan, đơn vị, địa phương gắn với nâng cao trách nhiệm giải trình của người đứng
đầu, kiểm soát quyền lực chặt chẽ”...
Luật gồm 05 chương, 32 điều (giảm 02 chương, 18 điều so với Luật hiện
hành), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2025, quy định một số nội dung nổi bật
như: (i) Xác định rõ cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân quyền theo quy định tại các luật, nghị quyết của Quốc hội;
(ii) Xác định rõ chủ thể phân cấp, chủ thể nhận phân cấp và trách nhiệm của các chủ thể này; cách thức thực hiện việc phân cấp; (iii) Xác định rõ chủ thể
ủy quyền, chủ thể nhận ủy quyền và trách nhiệm của các chủ thể này; cách thức, nội dung, phạm vi, thời hạn ủy quyền và các điều kiện mang
tính nguyên tắc trong việc thực hiện ủy quyền; (iv) Bổ sung quy định về trường
hợp phân cấp, ủy quyền dẫn đến cần thay đổi trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp, ủy quyền đang được quy định
trong văn bản quy phạm pháp luật của cấp mình thì cơ quan, người phân cấp, ủy
quyền sửa đổi, bổ sung ngay hoặc giao cấp dưới quy định; (v) Bổ sung quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ trong trường hợp cần huy động các nguồn lực để triển
khai các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia và thẩm quyền
của Thủ tướng Chính phủ trong việc quyết định áp dụng các biện pháp cấp bách
trong trường hợp cần thiết vì lợi ích quốc gia, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh,
bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân...
3. Luật
Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được ban hành để cụ thể hoá đầy
đủ quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá các chủ trương, định hướng
của Đảng nhằm tiếp tục đổi mới chính quyền địa phương theo hướng đẩy mạnh phân
quyền giữa cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương và giữa các cấp chính
quyền địa phương, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm
sự thống nhất, thông suốt của nền hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Luật gồm 07 chương, 50 điều (giảm 01 chương, 93 điều so với Luật hiện hành), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2025, sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung cụ thể về
phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền bảo đảm phù hợp với vai trò, tính chất của mỗi chủ
thể, rõ ràng về điều kiện bảo đảm và cơ chế chịu trách nhiệm trong thực hiện
phân quyền, phân cấp, ủy quyền; thể hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của
chính quyền địa phương theo hướng khái quát, bảo đảm có sự phân biệt nhất định về phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương ở từng cấp, tạo cơ sở cho việc tiếp tục quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước trong
các luật chuyên ngành, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và
tính khả thi, ổn định, lâu dài của Luật.
4. Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật (sửa đổi) được ban hành nhằm
kịp thời
tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho
việc xây dựng và vận hành hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật thống
nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả, dễ áp dụng
trên thực tế, khơi dậy mọi tiềm năng
và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước
trong kỷ nguyên mới. Luật gồm
09 chương, 72 điều (giảm 08 chương, 101 điều so với Luật hiện hành), có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/4/2025, trong đó có một số đổi mới quan trọng như: (i) Tiếp
tục bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam; (ii) Lược
giảm hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân cấp xã; (iii) Bổ sung nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật và thay
đổi hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Tổng Kiểm toán nhà nước từ quyết định sang thông tư; (iv) Chuyển
thẩm quyền quyết định Chương trình lập pháp hằng năm của Quốc hội sang Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, tách quy trình xây dựng chính sách ra khỏi việc lập Chương
trình lập pháp; (v) Đối với quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chính quyền
địa phương giao Chính phủ quy định chi tiết; (vi) Về nguyên tắc các dự
thảo luật, nghị quyết sẽ được xem xét, thông qua tại một kỳ họp;
Chính phủ và các cơ quan trình dự án chịu trách nhiệm đến cùng với dự án do cơ
quan mình trình; (vii) Bổ sung quy định
về hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật…
5. Nghị quyết quy định về xử lý một số vấn
đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành
nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng và quan điểm chỉ đạo của
cấp có thẩm quyền về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước, bảo đảm
cơ sở pháp lý để toàn hệ thống các cơ quan nhà nước có thể tiếp tục hoạt
động một cách liên tục, bình thường trong và sau quá trình thực hiện sắp
xếp tổ chức bộ máy nhà nước, không để ngắt quãng công việc, không
để khoảng trống về thời gian, địa bàn, lĩnh vực, hạn chế đến mức thấp
nhất các tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động bình thường của
người dân, doanh nghiệp và xã hội. Nghị quyết gồm 15 điều, quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, phát sinh khi sắp xếp
tổ chức bộ máy nhà nước như: việc thay đổi tên gọi của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; việc chuyển giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, chức danh có thẩm quyền, việc thực hiện thủ tục hành chính,
việc sử dụng văn bản, giấy tờ, con
dấu, các hoạt động thanh tra, tố tụng, thi hành án, trách nhiệm rà soát,
xử lý văn bản, công khai thông tin...
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày được Quốc hội thông qua (ngày 19/02/2025); được thực hiện đến hết ngày
28/02/2027, trừ quy định tại khoản 1 Điều 3, khoản 3 Điều 4 và khoản 3 Điều 11.
Căn cứ tình hình thực tế, Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định kéo
dài thời gian thực hiện Nghị quyết nếu thấy cần thiết.
6.
Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết về việc tổ chức các cơ quan của Quốc
hội và Nghị quyết về số thành viên UBTVQH khóa XV, theo đó:
- Tổ chức 08 cơ
quan của Quốc hội, gồm: Hội đồng Dân tộc; Ủy ban Pháp luật và Tư pháp; Ủy
ban Kinh tế và Tài chính; Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại; Ủy ban Văn
hóa và Xã hội; Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Ủy ban Công tác đại biểu;
Ủy ban Dân nguyện và Giám sát.
- Số lượng thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV có
19 thành viên, gồm: Chủ tịch Quốc hội, 06 Phó Chủ tịch Quốc hội và 12 Ủy viên.
7. Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về cơ cấu tổ
chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và Nghị quyết về cơ cấu số lượng
thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, theo đó:
- Chính phủ nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XV có 14 bộ và 03 cơ quan ngang bộ, gồm: Bộ
Quốc phòng; Bộ Công an; Bộ Ngoại giao; Bộ Nội vụ; Bộ Tư pháp; Bộ Tài chính; Bộ Công Thương; Bộ
Nông nghiệp và Môi trường; Bộ Xây dựng; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ
Khoa học
và Công nghệ; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Y tế; Bộ Dân tộc và Tôn giáo; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Chính phủ; Văn phòng Chính phủ.
- Cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV
có 25 thành viên, gồm: Thủ tướng Chính
phủ; 07 Phó Thủ tướng Chính phủ; 14 Bộ trưởng và 03 Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
8. Quốc hội đã bầu ông Vũ Hồng
Thanh, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và ông Lê Minh Hoan, nguyên
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ
bổ nhiệm ông Mai Văn Chính, nguyên Trưởng Ban Dân vận Trung ương và ông Nguyễn
Chí Dũng, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giữ chức Phó Thủ tướng Chính
phủ nhiệm kỳ 2021-2026. Đồng thời, Quốc hội cũng đã bầu 06 Chủ nhiệm Ủy ban của
Quốc hội (trong đó, có 01 Chủ nhiệm Ủy ban đồng thời được bầu là Ủy viên Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa XV); phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm
04 Bộ trưởng nhiệm kỳ 2021-2026. Bên cạnh đó, Quốc hội đã miễn nhiệm chức vụ Ủy
viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đối với 01 Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa XV, phê chuẩn việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng nhiệm kỳ 2021-2026 đối
với 02 Bộ trưởng để nhận nhiệm vụ công tác khác.
Công tác nhân sự đã được thực hiện chặt chẽ, theo đúng quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, được sự đồng thuận, thống nhất cao của các vị đại biểu
Quốc hội.
II. VỀ CÁC NGHỊ
QUYẾT QUY ĐỊNH CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC BIỆT, ĐẶC THÙ, CÁC NỘI DUNG QUAN TRỌNG, CẤP
BÁCH, CẦN THIẾT KHÁC
1. Căn cứ kết quả đạt được của năm
2024, tình hình dự báo năm 2025 và đề xuất
của Chính phủ, Quốc hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về bổ sung Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên;
trong đó, đã đề ra 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để Chính phủ và các cơ
quan liên quan thực hiện, bao gồm: (i)
Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác tổ chức
thi hành pháp luật; (ii) Tập trung
nguồn lực hoàn thiện kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại; khơi thông
và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư công; (iii)
Tập trung cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,
tạo mọi điều kiện giải quyết nhanh các thủ tục đầu tư, các khó khăn, vướng mắc
trong hoạt động đầu tư kinh doanh, khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh
tế; (iv) Đẩy mạnh và làm mới các động
lực tăng trưởng truyền thống; (v)
Thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, phát triển lực lượng sản xuất mới,
tiên tiến...
2. Quốc hội
đã xem xét, thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt
tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
quốc gia nhằm khẩn
trương thể chế hóa một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách trong Nghị quyết số
57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nhằm giải phóng, khơi thông mọi
nguồn lực để phát triển, góp phần đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các
nhiệm vụ để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên trong năm 2025 và tăng
trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030.
Nghị quyết gồm 04 chương, 17 điều, có hiệu lực
thi hành từ ngày Quốc hội thông qua (ngày 19/02/2025), quy định các cơ chế,
chính sách đặc biệt về thành lập, điều
hành doanh nghiệp từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; chấp nhận rủi ro trong
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; cấp kinh phí nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ theo cơ chế quỹ; khoán chi trong thực hiện
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ưu đãi thuế cho doanh nghiệp và cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; sử
dụng ngân sách trung ương triển khai các nền tảng số dùng chung và chỉ định thầu
các dự án chuyển đổi số; chính sách phát triển các tuyến cáp viễn thông kết nối
quốc tế trên biển do doanh nghiệp viễn thông Việt Nam tham gia góp vốn hoặc là
chủ đầu tư; thí điểm có kiểm soát dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh
quỹ đạo tầm thấp; hỗ trợ tài chính xây dựng nhà máy đầu tiên để phục vụ nghiên
cứu, đào tạo và sản xuất chip bán dẫn…
3. Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị
quyết về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt
Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng để triển
khai thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng, Nghị quyết, Kết luận của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về đầu tư xây dựng tuyến đường sắt
Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; tạo tiền đề để phát triển công nghiệp đường sắt,
công nghiệp hỗ trợ; tạo ra thị trường xây dựng với giá trị khoảng 4,4 tỷ USD, ước
tính tạo ra khoảng 90.000 việc làm trong thời gian xây dựng và khoảng 2.500 việc
làm lâu dài trong quá trình vận hành, khai thác; góp phần giảm tai nạn giao
thông, ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và góp phần bảo đảm quốc
phòng, an ninh.
Dự án
có điểm
đầu tại vị trí nối ray qua biên giới (tỉnh Lào Cai), điểm cuối tại ga Lạch Huyện
(thành phố Hải Phòng); chiều dài tuyến chính khoảng 390,9 km; chiều dài các tuyến
nhánh khoảng 27,9 km; đi qua địa phận 09 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
gồm: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải
Dương và Hải Phòng.
Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án là 203.231 tỷ đồng; đầu tư mới toàn tuyến
đường đơn, khổ 1.435 mm; vận chuyển chung hành khách, hàng hóa; tốc độ thiết kế
160 km/h đối với tuyến chính đoạn từ ga Lào Cai mới đến ga Nam Hải Phòng, tốc độ
thiết kế 120 km/h đối với đoạn qua khu vực đầu mối thành phố Hà Nội, tốc độ thiết
kế 80 km/h đối với các đoạn tuyến còn lại.
4. Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị
quyết Thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để phát triển mạng
lưới đường sắt đô thị tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết “điểm nghẽn” về thể chế
nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đầu tư hoàn thành mạng lưới đường sắt đô thị tại
hai thành phố, qua đó đáp ứng nhu cầu vận tải công cộng, góp phần tái cơ cấu
các phương thức vận tải đô thị bền vững, hài hòa, hợp lý. Nghị quyết gồm 11 điều,
trong đó có một số nội dung như: (i)
Thủ tướng Chính phủ được quyết định mức tối đa bố trí cho mỗi thành phố từ kế
hoạch đầu tư công trung hạn, hằng năm vốn
ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương, làm cơ sở
quyết định đầu tư và thực hiện đầu tư các dự án; (ii) Dự án đường sắt đô thị, dự án đường sắt đô thị theo mô hình
phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (sau đây gọi là TOD) được
thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư dự án mà không phải thực
hiện thủ tục lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư và các thủ tục khác
có liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật có
liên quan; (iii) Căn cứ quy hoạch khu
vực TOD được phê duyệt, Ủy ban nhân dân hai thành phố được quyết định việc chuyển
nhượng chỉ tiêu sử dụng đất quy hoạch giữa các dự án, công trình trong khu vực
TOD; (iv) Quy định về việc khai thác khoáng
sản nhóm IV và khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường thuộc khoáng sản
nhóm III theo quy định của Luật Địa chất và khoáng sản; quy định về bãi đổ chất
thải rắn xây dựng và tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước phục vụ các dự
án đường sắt đô thị, công trình đường sắt đô thị thuộc dự án đường sắt đô thị
theo mô hình TOD...
5. Quốc hội đã xem
xét, thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc
biệt đầu tư xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận để khẩn trương thể chế hóa một số nhiệm vụ,
giải pháp triển khai xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận nhằm bảo đảm
an ninh năng lượng quốc gia, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2
con số trong những năm tới, thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm
2050.
Nghị quyết gồm 05 điều, quy định một số cơ chế, chính sách đặc biệt để đầu tư xây dựng Dự án điện
hạt nhân Ninh Thuận và một số cơ chế, chính sách đặc biệt áp dụng cho tỉnh Ninh
Thuận để thực hiện Dự án, cụ thể như: (i)
Triển khai đồng thời việc đàm phán với đối tác song
song với quá trình phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư và phê duyệt dự án đầu
tư; (ii) Lựa chọn nhà đầu tư và
nhà thầu; (iii) Áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy phạm và hướng dẫn kỹ
thuật do đối tác thực hiện đề xuất áp dụng; (iv) Giao Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc cho phép áp dụng các định mức, đơn giá trên
cơ sở đàm phán với đối tác thực hiện Dự án; (v) Chủ đầu tư không phải thực hiện thủ tục
trình cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước để thông qua, phê duyệt nội dung liên quan; (vi) Không phải thực hiện thủ
tục chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; (vii) Không phải thực hiện thủ tục điều
chỉnh khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia và thời gian dự trữ khoáng sản quốc
gia, khu vực quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng
sản...
6. Ngoài ra, Quốc hội
đã thống nhất thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều
lệ giai đoạn 2024 - 2026 của Công ty mẹ - Tổng công ty Đầu tư phát triển đường
cao tốc Việt Nam; một số cơ chế, giải pháp cấp bách cần thiết để triển khai dự
án cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, xây mới Trụ sở làm việc cơ quan Chủ tịch nước.
C.
ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
1. Tập trung tuyên truyền làm rõ việc
cần thiết tổ chức Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, đó là: kịp thời
cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng về thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm các cơ quan, tổ chức, đơn vị sau sắp xếp,
kiện toàn hoạt động tốt hơn, chất lượng hơn, giảm đầu mối trung gian, phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan theo hiến định; chuyển mạnh từ
“tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát
quyền lực. Khẳng định kỳ họp này, Quốc hội kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng
mắc, bất cập về thể chế, khơi thông các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc.
2.
Tuyên truyền
nêu bật ý nghĩa quan trọng, cấp thiết của các luật, nghị quyết được Quốc hội xem xét, thông qua nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, theo hướng đổi
mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; hạn chế tối đa các quy trình, thủ
tục không cần thiết; phát huy sự năng động, sáng tạo gắn với vai trò, trách nhiệm.
Các luật được thông qua: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi); Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa
đổi); Nghị quyết về bổ sung Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với
mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên; Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo
đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc
gia; Nghị quyết Thí điểm một số cơ chế,
chính sách đặc thù, đặc biệt để phát triển mạng lưới đường sắt đô thị tại Thành
phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc
biệt đầu tư xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận,…
3. Tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu
tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động nắm diễn biến tình
hình tư tưởng của Nhân dân trước các sự kiện chính trị của đất nước, nhất là những
nội dung các luật, nghị quyết của Kỳ họp bất thường lần thứ 9 được Quốc hội
thông qua, kịp thời định hướng dư luận xã hội.
4. Cổ vũ toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của
Đại hội XIII của Đảng, tạo động lực then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
đưa đất nước tiếp tục phát triển bền vững, chuẩn bị tổ chức Đại hội đảng bộ các
cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng, kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025), 80
năm Ngày Cách
mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 -19/8/2025) và Quốc khánh nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025) và Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.
BAN TUYÊN GIÁO VÀ DÂN VẬN TRUNG ƯƠNG - VĂN PHÒNG
QUỐC HỘI